Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp để rèn đọc cho học sinh Lớp 1
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp để rèn đọc cho học sinh Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp để rèn đọc cho học sinh Lớp 1
người và xã hội. Hơn nữa nó còn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh những hành vi đạo đúc tốt như thói quen tự học tính cẩn thận, óc thẩm mỹ. Qua đó giáo dục cho các em tình yêu dân tộc, yêu quê hương đất nước. Xuất phát từ vị trí và tầm quan trọng của việc dạy tập đọc lớp 1. Xuất phát từ nhu cầu đặt ra trong công cuộc đổi mới giáo dục. Từ những vấn đề trên tôi quyết định chọn đề tài “ Một số biện pháp để rèn đọc cho học sinh lớp 1 ” . II. NỘI DUNG A. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI: 1. Nghiên cứu lý luận để làm rõ các nội dung: - Hiểu và nắm chắc phương pháp đổi mới của phân môn. - Tìm hiểu và học hỏi kinh nghiệm giảng dạy của bạn bè đồng nghiệp. - Nắm vững mục tiêu, yêu cầu của bài dạy. - Thường xuyên kiểm tra và phân loại đối tượng học sinh. - Tập trung nhiều vào đối tượng học sinh đọc chưa đạt chuẩn. 2. Tiến hành khảo sát thực tế để rút ra bài học kinh nghiệm về việc rèn đọc đúng, đọc nhanh, đọc thành thạo cho học sinh lớp 1. 3. Những kết luận và đề xuất. B. CƠ SỞ LÝ LUẬN: 1. Cơ sở tâm lí của trẻ. Học sinh tiểu học chủ yếu ở độ tuổi từ 6 -11 tuổi. Ở độ tuổi này học sinh còn rất ngây thơ trong trắng hay bắt chước học đòi. Do vậy tuổi của các em là tuổi sống bằng tình cảm. Nếu như không biết giáo dục các em ngay từ buổi đầu thì quả là điều thiếu sót lớn của mỗi người giáo viên chúng ta. 2. Đặc điểm về chú ý. Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh, nhất là đối tượng học sinh chưa đạt chuẩn. Các em nhận biết còn chậm chưa nhìn chính xác vần nên ghép tiếng còn chậm dẫn đến đọc từ chậm, đọc câu rất khó khăn. Hơn nữa khả năng tập trung của các em còn chưa cao, tư duy chưa phát triễn đều, các thao tác trí tuệ của các em chưa hoàn chỉnh. Vì thế trong quá trình luyện đọc tôi thường phải hướng dẫn các em ngắt nghỉ đúng chỗ, và hết sức kiên nhẫn, - Một số học sinh do hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ đi làm ăn xa nên phải gửi con lại cho ông bà chăm sóc mà ông bà lại già yếu nên cũng ảnh hưởng không ít đến việc học của các em. - Tranh ảnh minh họa cho môn Tiếng Việt còn hạn chế. Giáo viên còn phải tự làm đồ dùng thêm để phục vụ cho công tác giảng dạy nên cũng gặp không ít khó khăn. - Mặt khác học sinh chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập nhiều hơn nên các em dễ dẫn đến chán nản. - Một số học sinh trong hoạt động học tập còn nhiều thụ động chưa có tính tự giác cao, chưa mạnh dạn, tự tin trong môi trường học tập mới. D. SÁCH TIẾNG VIỆT LỚP 1: - Phần học vần có 3 dạng cơ bản. + Làm quen với âm và chữ. + Dạy – học âm vần mới. + Ôn tập âm, vần. - Phần tập đọc: Mỗi tuần có 3 bài tập đọc. Mỗi bài học trong 2 tiết. Nhiệm vị chính là dạy cho học sinh đọc thành tiếng và đọc hiểu. - Các văn bản đọc được tuyển chọ phù hợp lứa tuổi học sinh lớp 1; Thú vị, hấp dẫn, gần gũi với thế giới hồn nhiên, tươi tắn của trẻ. Có tác dụng giúp trẻ nhờ tiếp xúc với sách mà có thêm hiểu biết, nâng cao hơn về tình cảm, thông minh và tự tin hơn. 1.Tập 1: Gồm 2 phần - Phần học âm ( chữ cái): Học sinh được học các âm, vần, tiếng, từ, câu theo từng bài như sách giáo khoa. - Phần học vần: Mỗi bài học trong 2 tiết. Mỗi tuần dạy 5 bài với 1 cấu trúc chặt chẽ, vừa đảm bảo tính đồng tâm, vừa bảo đảm tính phát triễn. 2.Tập 2: Gồm 2 phần - Phần học vần: Học sinh được học các vần, tiếng từ, câu theo từng bài như sách giáo khoa. - Trong tiết dạy tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, học sinh đọc chậm, đọc chưa rõ lời để gọi các em đọc thường xuyên. Tôi thường khích lệ, khen ngợi để các em phấn khởi hơn. - Trong tiết dạy tập đọc, sau khi cho cả lớp đọc xong tôi thường gọi các em đọc chưa đạt chuẩn lên đọc cùng với tôi và tôi dành nhiều thời gian hơn cho đối tượng học sinh này. - Trong khi hướng dẫn học sinh đọc tôi thường kết hợp với tranh ảnh,vật thật để giới thiệu tiếng, từ nhằm giúp cho học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ, giúp các em đọc đúng, đọc nhanh và để khắc sâu kiến thức hơn và góp phần phát triển tư duy trừu tượng cho các em. - Tôi thường thay đổi hình thức và phương pháp dạy học một cách hợp lí. Từ đó, học sinh sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo tránh học sinh thụ động, nhàm chán, đọc vẹt. 2. Tình hình thực tiễn và phương pháp rèn kĩ năng đọc: a) Tình hình thực tiễn: Đối với học sinh tiểu học giáo viên là người đóng vai trò tổ chức cả quá trình học tập của trẻ. Chính vì thế người cô phải là người có tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực, có năng lực sư phạm, vững về chuyên môn nhằm để nâng cao chất lượng giáo dục. b) Phương pháp rèn kĩ năng đọc: Trong từng tiết dạy tôi thường phải xác định những kiến thức cần truyền thụ cho học sinh thông qua mục đích, yêu cầu của bài dạy. Tôi thường lựa chọn các phương pháp dạy học hợp lí như: Phương pháp trực quan, phương pháp đàm thoại, phương pháp luyện tập thực hành, phương pháp hoạt động theo nhóm. Ngoài ra cần tăng thời gian cho phần luyện đọc, thường xuyên nhắc nhở học sinh cần luyện đọc ở nhà và tôi tổ chức trò chơi trong từng tiết học. Đặc biệt là tăng cường kiểm tra học sinh chưa đạt chuẩn. 3. Khảo sát: Tranh ảnh, vật thật để giới thiệu từ khoá, tranh ảnh để giải nghĩa từ ứng dụng. III. Các hoạt động dạy học: A. Ổn định tổ chức: B. Kiểm tra bài cũ: - Giáo viên gọi học sinh lên bảng đọc bài 32: “ oi- ai” kết hợp cho học sinh viết một số từ “ nhà ngói, bé gái” vào bảng con. - Giáo viên nhận xét, sửa chữa cho học sinh. C. Bài mới: 1. Giới thiệu bài: Giáo viên dùng lời dẫn để giới thiệu bài. 2. Giảng bài” a) Dạy vần ôi: - Giáo viên giới thiệu và viết vần ôi lên bảng. - Học sinh nhận diện vần: Vần ôi gồm 2 âm ô + i - Học sinh cài bảng, đánh vần và đọc trơn vần ôi (cá nhân, bàn, nhóm). - Giáo viên giới thiệu và viết tiếng mới: ổi - Học sinh cài bảng, phân tích, đánh vần, đọc trơn tiếng(cá nhân, bàn, nhóm). - Cho học sinh quan sát tranh và giới thiệu từ: trái ổi - Học sinh đọc trơn từ (cá nhân, đồng thanh). - Cho học sinh đọc kết hợp, tiếng, từ (ôi- ổi – trái ổi) (Đọc ngược, xuôi). d) Dạy vần ơi:( các bước tương tự vần ôi) - Giáo viên giới thiệu và viết vần ơi lên bảng. - Học sinh nhận diện vần: Vần ơi gồm 2 âm ơ + i - Học sinh cài bảng, đánh vần và đọc trơn vần ơi (cá nhân, bàn, nhóm). - Giáo viên giới thiệu và viết tiếng mới: bơi - Học sinh cài bảng, phân tích, đánh vần, đọc trơn tiếng(cá nhân, bàn, nhóm). - Cho học sinh quan sát tranh và giới thiệu từ: bơi lội - Học sinh đọc trơn từ (cá nhân, đồng thanh). - Phương pháp trực quan kích thích sự chú ý và hứng thú học tập đối với học sinh tiểu học, giúp các em lĩnh hội bài học một cách có ý thức. Từ các phương tiện trực quan như: Tranh ảnh, vật thật tạo điều kiện xây dựng ở học sinh những biểu tượng cụ thể. Chính vì lẽ đó mà tôi thường chú ý lựa chọn một cách thích hợp các phương tiện sao cho phù hợp với mục đích và nhiệm vụ dạy học của bài. Trong trường hợp nào thì nên dùng tranh ảnh, trường hợp nào thì dùng vật thật. - Sử dụng đồ dùng trực quan phải đúng lúc, đúng chỗ, khi cho học sinh quan sát xong cần cất ngay tránh lạm dụng trực quan trong tiết dạy sẽ chi phối sự chú ý của học sinh. - Phương pháp đàm thoại: Đàm thoại là hệ thống câu hỏi và trả lời giữa tôi và học sinh. Đây là một biện pháp quan trọng nhất của người giáo viên. Nhưng sử dụng nó như thế nào cho hợp lí ? Nó có thể có sẵn trong sách giáo viên nhưng chúng ta không nên chỉ áp dụng rập khuôn, máy móc mà cần mổ xẻ chia ra nhiều câu hỏi nhỏ để phù hợp vời từng đối tượng học sinh hoặc sưu tầm thêm một số câu hỏi ngoài để nâng cao kiến thức cho học sinh đạt và trên chuẩn. - Luyện tập thực hành là phương pháp nhằm kiểm tra việc tiếp thu kiến thức của học sinh trong quá trình học. Qua đó giáo viên thấy được học sinh học được phần nào, chưa được phần nào để kịp thời khắc phục. - Hoạt động theo nhóm là phương pháp làm tăng sự hứng thú học tập cho các em. Qua hoạt động này tôi có thể phân biệt được từng đối tượng học sinh( nhanh, chậm - tự giác hay không tự giác). - Ngoài ra trong trong quá trình dạy tôi thường gần gũi, động viên, khích lệ, tránh phê bình học sinh trước tập thể lớp để lần sau các em học tập được tốt hơn. III. KẾT LUẬN A. Kết quả nghiên cứu: Đồng thời người giáo viên phải có nghệ thuật vận dụng kiến thức, phương pháp, kĩ năng sư phạm để dẫn dắt học sinh vào quá trình học tập và rèn luyện. Để đạt được kết quả tốt đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ nhất định về kiến thức, phải linh hoạt sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Ngoài ra một điều không thể thiếu đó là lòng nhiệt tình, sự tận tâm với nghề, đức tính chịu khó, kiên trì, đầu tư thích đáng cho việc nghiên cứu tài liệu phục vụ cho mỗi bài dạy của mỗi giáo viên. Đó là yêu cầu đặt ra với mỗi giáo viên nào. Qua các biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh như trên tôi tin rằng cuối học kì II tỉ lệ học sinh đọc tốt sẽ chiếm tỉ lệ cao. Vì hiện nay các em mới chỉ học ở phân môn học vần, sang học kì II học sinh tiếp tục được rèn kĩ năng đọc thông qua phân môn tập đọc. C. Kiến nghị: 1.Về phía giáo viên: - Mỗi giáo viên phải biết sử dụng và lựa chọn linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học.( Nhóm đôi, nhó lớn, nhóm nhỏ). Đặc biệt chú ý đến hình thức tổ chức dạy học phát huy tối đa ý nghĩa việc dạy học theo nhóm. - Mỗi giáo viên phải có kĩ năng truyền đạt tốt. Vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp, đa dạng hóa hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động học tập của học sinh. - Nắm chắc từng đối tượng học sinh để có các biện pháp cá thể hóa trong dạy học. - Có đồ dùng trực quan đẹp, phù hợp, biết cách sử dụng và sử dụng có hiệu quả đồ dùng dạy học. - Tôn trọng sự phát triễn tự do của học sinh, định hướng cách học cho các em. - Thường xuyên quan tâm, yêu thương, ân cần dạy bảo và có biện pháp giáo dục phù hợp với các em. - Thường xuyên rèn luyện cách đọc đúng cũng như chữ viết của bản thân. 2. Về phía nhà trường:
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_de_ren_doc_cho_hoc_si.doc