Đề cương ôn tập lần 3 học kì II môn Ngữ Văn Lớp 8 - Tuần 9 đến 11 (Có đáp án)

docx 9 Trang tailieuhocsinh 114
Bạn đang xem tài liệu "Đề cương ôn tập lần 3 học kì II môn Ngữ Văn Lớp 8 - Tuần 9 đến 11 (Có đáp án)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề cương ôn tập lần 3 học kì II môn Ngữ Văn Lớp 8 - Tuần 9 đến 11 (Có đáp án)

Đề cương ôn tập lần 3 học kì II môn Ngữ Văn Lớp 8 - Tuần 9 đến 11 (Có đáp án)
 VĂN THỂ 
 TÁC GIẢ GIÁ TRỊ NỘI DUNG
 BẢN LOẠI
 khởi gợi lòng yêu nước thầm kín của 
 người dân mất nước thuở ấy.
 Ông đồ Vũ Đình Thơ 5 chữ Bài thơ thể hiện sâu sắc tình cảnh đáng 
 Liên (1913- (thơ mới) thương của “ông đồ”. Qua đó toát lên niềm 
 1996) cảm thương chân thành trước một lớp 
 người đang tàn tạ và nỗi tiếc nhớ người 
 xưa của nhà thơ.
 Quê Tế Hanh Thơ 8 chữ “Quê hương” đã vẽ ra một bức tranh tươi 
 hương (1921) (thơ mới) sáng, sinh động về một làng quê miền 
 biển, trong đó nổi bật lên hình ảnh khoẻ 
 khoắn đầy sức sống của người dân chìa và 
 sinh hoạt lao động làng chài. Bài thơ cho 
 thấy tình cảm quê hương trong sáng tha 
 thiết của nhà thơ.
 Khi con Tố Hữu Lục bát Bài thơ thể hiện sâu sắc lòng yêu cuộc 
 tu hú (1920- sống và niềm khát khao tự do cháy bỏng 
 2002) của người chiến sĩ Cách Mạng trong cảnh 
 tù đày.
 Tức Hồ Chí Thất ngôn Tinh thần lạc quan, phong thái ung dung 
cảnh Pác Minh tứ tuyệt của Bác Hồ trong cuộc sống cách mạng 
 Bó (1890- đầy gian khổ ở Pác Bó. Với Người, làm 
 1969) cách mạng và sống hoà hợp với thiên 
 nhiên là niềm vui lớn.
 Ngắm Hồ Chí Thất ngôn Tình yêu thiên nhiên đến say mê và 
 trăng Minh tứ tuyệt phong thái ung dung của Bác Hồ ngay cả 
 trong cảnh tù ngục cực khổ tối tăm.
 THƠ CỔ THƠ MỚI
- Số câu, số chữ được hạn định. - Số câu, số chữ trong câu không hạn định, 
 không bằng nhau.
 - Lời thơ tự nhiên, không có tính chất ước 
- Luật bằng trắc, phép đối, quy tắc 
 lệ, khuôn sáo, cảm xúc chân thật.
gieo vần rất chặt chẽ. Tuổi trẻ phải ước mơ, phải khát khao cống hiến. Có như vậy, cuộc sống mới 
dồi dào ý nghĩa.
 Đề 2:
 a) Mở bài.
 Mối quan hệ giữa văn học và tình thương trong lịch sử văn học.
 b) Thân bài.
 - Tại sao văn học luôn gắn bó với tình thương?
 + Vì văn học là tâm hồn dân tộc.
 + Một trong những vẻ đẹp nhất của tâm hồn dân tộc ấy là tình thương yêu 
nhân loại.
 - Văn học gắn bó với tình thương như thế nào?
 + Văn học nói lên nỗi đau khổ của mọi kiếp người.
 + Văn học nói lên sự cảm thông đối với nỗi đau của họ và gợi tình thương 
yêu trong mỗi tâm hồn người đọc.
 + Văn học bồi dưỡng, làm đẹp tâm hồn con người.
 c) Kết bài.
 Tình yêu thương đã trở thành một phẩm chất và là thước đo cao quý của văn 
học. Nó cứu vớt, dìu dắt, nâng niu con người trong hiện tại và trên đường đến 
tương lai.
 Tham khảo một số bài viết:
 1. Luận về nguyên lý văn chương
 Phàm việc gì cũng có nguyên lý. Nguyên lý tức là cái lẽ căn nguyên của việc ấy. 
Văn chương cũng vậy. Đặt nên câu thơ câu hát, viết ra bài luận, bài văn, thì gọi là 
văn chương. Song thử xem căn nguyên của văn chương ấy, bởi lẽ gì mà có, vì ở đâu 
mà sinh ra thì gọi là nguyên lý văn chương.
 Cha mẹ dạy con, giảng giải đều hơn lẽ thiệt, rạch ròi kẽ tóc chân tơ. Hai người 
tự tình biệt ly với nhau, ấm lạnh ngọt bùi, kể hết nỗi này kể sang nỗi khác. Người 
đàn bà lỡ bước, thở dài than vắn, phàn nàn những số phận hẩm hưu. Đứa mục đồng 
đi chăn trâu, nhân khi thích chí nghêu ngao vài tiếng giữa đồng, đó toàn là cái mầm 
của văn chương cả. Nói cho cùng thì một tiếng cười một tiếng khóc của đứa trẻ thơ, 
cũng là cái gốc văn chương.
 Người ta có tính tình, có tư tưởng, có ngôn ngữ văn tự, thì tự nhiên phải có văn 
chương. Tính tình người ta cảm xúc với ngoại vật, sinh ra khi mừng, khi giận, khi 
vui, khi buồn, khi xót xa, khi ham muốn. Các mối tình ấy chứa ở trong bụng, tất phải 
phát tiết ra nhời nói: đó tức là nguyên lý văn chương. 2. Suy nghĩ về việc học
 Học để làm gì? Câu hỏi ấy nghe ra thật là tầm thường cũ rích, tưởng như 
không ai để ý đến; nhưng cứ như những câu trả lời của các nhà học giả xưa nay 
thì có một câu vắn tắt mà có thể bao quát được toàn thể và công dụng sự học là:
 Học để làm người
 Theo câu nói ấy, có kẻ lại cãi rằng: Vậy thì không học không làm người được 
sao? Kìa như ông Hán Cao Tổ không học mà làm một ông vua anh hùng; ông 
Hoắc Quang không học mà làm được công nghiệp lớn. Bên Âu Tây, nhiều nhà 
đại chính trị đại sáng tạo, hoặc trọn đời ở trong các mỏ, các công xưởng mà làm 
được công việc to đó thì sao? Còn ở trên đời biết bao nhiêu người vào trường nọ, 
đậu bằng kia, đào mãi trong trăm ngàn bộ sách, miệng nói ra rành là chuyện văn 
hào đông tây, mà xét đến phẩm cách tính chất, có điều mất cả tư cách làm người 
nữa. Thế thì câu nói "học để làm người" không phải là không đúng sao?
 Phải, chỉ nói trông không là "học", thì có hơi không rõ ràng mà lẫn lộn như 
trên, nên trước phải hiểu cái "học làm người" này không phải như người mình 
thường gọi là "đi học". Theo lối thông thường người mình thì có ôm sách tới 
trường, có thầy dạy, có thi có đỗ, mới gọi là học. Nhưng cái học làm người này thì 
khác hẳn thế. Sao vậy? Cái học làm người này, nói về học khoá cần thiết thì người 
thông thường ai cũng có thể theo sức lực cùng bản năng của mình mà làm hết 
phận sự; mà nói đến chỗ cao diệu thì dầu thánh hiền hào kiệt cũng không ai dám 
tự phụ, rằng đã làm được hoàn toàn cực điểm. Bởi vì, đã là "người" thì ai cũng là 
người, mà nói đến sự làm người thì rất là mênh mông mà không có hạn lượng. 
Trăm năm ngắn ngủi, trẻ, lớn, già, chết không cái gì mới lạ. Song kẻ thì thánh hiền 
hào kiệt, kẻ thì ngu tiện dung phàm; người thì có công với nhân loại, muôn đời ai 
cũng hinh hương, người lại hại giống hại nòi, trăm miệng cũng đều thoá mạ. 
Không những thế mà thôi, làm một người về thời đại cổ, và làm một người ở thời 
đại nay khác nhau; làm người ở nước giàu mạnh với làm người ở nước hèn yếu 
khác nhau, suy ra đối với nước nhà mình và đối với thế giới nhân loại chung, nên 
làm người thế nào. Cảnh địa của người trăm chiều không đồng nhau thì cái cách 
làm người cho xứng đáng thích hợp cũng không phải cùng một cách. Những 
chuyện mấy bậc vĩ nhân đông tây xưa nay, biết bao nhiêu điều đủ làm gương cho 
người sau học theo mà người nào có chân tướng người nấy, mỗi người dạy cho 
người sau một việc; bắt chước được một việc thì dầu ai đọc thuộc trăm nghìn 
quyển sách cũng chẳng hơn chi.
 Cái trường học để "làm người" đó tức là cái cõi đời ta ở vậy. Bao nhiêu sự 
khốn khó ở đời, bao nhiêu sự kinh nghiệm người trước để lại đều là những bài dạy 
cho ta. "Làm người" ở đời đã khó như trên đã nói thì "học làm người" chắc không 
phải chuyện dễ.
 Trong cái trường học mông mênh kia, trắng vàng chen lộn, sự lành sự ác, điều 
dở điều hay không thiếu thứ gì; nên ai đã đem thân tòng học ở cái trường ấy thì 
cần phải có cặp mắt biết quan sát và cái não biết phán đoán để lựa những chuyện 
đáng làm theo, cùng những chuyện đáng chữa cãi.
 Cái mục đích chân chính của sự học là thế đó. Học như thế mới mong bổ ích - Những con nghiện mà không được gia đình chấp nhận sẽ đi lang làm mất vẻ mỹ 
quan, văn minh lịch sự, vật vờ trên những con đường của xã hội.
- Làm suy giảm giống nòi 
3. Từ việc nêu và phân tích tác hại cần khẳng định: Phải nói "không" với ma tuý
4. Biện pháp (Sau khi khẳng định nói "không" cần dẫn để nêu lên biện pháp phòng 
chống ma tuý):
- Có kiến thức về tác hại, cách phòng trách ma tuý, từ đó tuyên truyền cho mọi người 
về tác hại của nó.
- Hãy tránh xa với ma tuý bằng mọi cách, mọi người nên có ý thức sống lối sống lành 
mạnh, trong sạch, không xa hoa, luôn tỉnh táo, đủ bản lĩnh để chống lại mọi thử thách, 
cám dỗ của xã hội.
- Nhà nước cần phải có những hình thức xử phạt nghiêm khắc, triệt để đối với những 
hành vi tàng trữ, buôn bán vận chuyển trái phép ma tuý.
- Đồng thời cũng phải đưa những người nghiện vào trường cai nghiện, tạo công ăn 
việc làm cho họ, tránh những cảnh "nhàn cư vi bất thiện", giúp họ nhanh chóng hoà 
nhập với cuộc sống cộng đồng, không xa lánh, kì thị họ.
- Tham gia các hoạt động truyền thống tệ nạn xã hội 
III. Kết bài:
Rút ra kết luận: Ma túy kinh khủng là thế nên mỗi chúng ta phải biết tự bảo vệ mình, 
tránh xa những tệ nạn xã hội, tránh xa ma túy.
Bài tham khảo: Hãy nói không với các tệ nạn xã hội.
Ngày nay, đất nước Việt Nam của chúng ta đang là một trong những quốc gia trên đà 
phát triển trong khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là sau khi chính thức gia nhập vào tổ 
chức kinh tế thế giới WTO và tháng 11 năm 2008. Đời sống của mọi người dân đã và 
đang ngày càng được cải thiện; mức thu nhập bình quân đầu người cũng đang được 
tăng dần lên trong những năm gần đây và đặc biệt là tỉ lệ số người thất nghiệp cũng 
đã được giảm đến mức thấp nhất Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu về kinh tế 
sau khi mở cửa thị trường với các nước phương Tây thì ta cũng phải đương đầu với 
những cơn lốc tệ nạn xã hội vốn là hệ quả của quá trình phát triển kinh tế. Một trong 
số những tệ nạn xã hội đó là tệ nạn tiêm chích và buôn bán ma túy. Đây là một trong 
những tệ nạn nguy hiểm nhất trong các loại tệ nạn.
Ma túy là một danh từ dùng để chỉ chung cho tất cả các chất gây nghiện, tác động lên 
thần kinh trung ương tạo ra ảo giác. Ma túy vốn là một loại dược phẩm được sử dụng 
hợp pháp trong các bệnh viện để phục vụ cho việc chữa bệnh và đặc biệt là làm thuốc 
giảm đau sau những ca mổ lớn. Ma tuý có nguồn gốc tự nhiên như thuốc phiện, cần 
sa tinh chế lại thành He – ro – in, Co – ca – in hay tổng hợp từ những loại dược chất 
có độc tố gây ảo giác như estasy, seduxen. Đặc điểm nổi bật nhất của ma túy là làm 
người sử dụng nó bị tê liệt hệ thần kinh đến mất đi tri giác, không còn biết đau đớn, 
cho dù bị lửa đốt hay kim châm đến chảy máu.
Ngoài ra, người sử dụng ma túy dù chỉ một lần cũng sẽ trở nên bị nghiện ngập. Nếu 
chúng ta cứ vô tư sử dụng chất ma túy một cách tuỳ tiện thì chúng ta sẽ tự biến mình 
thành nô lệ của nó. Nếu hằng ngày mà không tiêm chích ma túy thì người nghiện sẽ 
trở nên đau đớn vô cùng, đau vật vã, dữ dội đến mức mất lí trí tự cấu xé thể xác mình 
mà không hề cảm thấy đau đớn, thậm chí có thể giết người, cướp của, trộm cắp, 
tham gia tàng trữ buôn bán ma tuý miễn sao có tiền để thỏa mãn được cơn nghiện. 
Vì vậy khi sử dụng ma túy, con người rất dễ vi phạm pháp luật và trở thành một mối 
nguy hiểm lớn cho xã hội cộng đồng. Việc tiêm chích ma túy còn là nguyên nhân 
chính phát sinh những căn bệnh nguy hiểm của thời đại như: HIV/AIDS.
Ma túy đã và đang trở thành một mối nguy hiểm đối với mỗi cá nhân. Ma túy là một tệ 
nạn ảnh hướng xấu đến môi trường sống, xã hội cộng đồng. Báo chí đã từng đưa tin 
có biết bao nhiêu bi kịch gia đình đã xảy ra mà nguyên nhân bắt nguồn từ chất ma túy 
gây nghiện. Những người thân trong gia đình cũng trở thành nạn nhân của những con 

File đính kèm:

  • docxde_cuong_on_tap_lan_3_hoc_ki_ii_mon_ngu_van_lop_8_tuan_9_den.docx