Đề cương ôn tập lần 2 học kì II môn Ngữ Văn Lớp 8 - Tuần 6 đến 8 (Có đáp án)

docx 9 Trang tailieuhocsinh 40
Bạn đang xem tài liệu "Đề cương ôn tập lần 2 học kì II môn Ngữ Văn Lớp 8 - Tuần 6 đến 8 (Có đáp án)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề cương ôn tập lần 2 học kì II môn Ngữ Văn Lớp 8 - Tuần 6 đến 8 (Có đáp án)

Đề cương ôn tập lần 2 học kì II môn Ngữ Văn Lớp 8 - Tuần 6 đến 8 (Có đáp án)
  câu nghi vấn: thực hiện hành động phủ định.
3. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui vẻ phỏng có được không?
 Câu nghi vấn thực hiện hành động khẳng định.
 cả hai đều thuyết phục, khích lệ và động viên tướng sĩ.
4. Vì sao vậy? 
 câu nghi vấn : thực hiện hành động gây sự chú ý.
5. Nếu vậy, rồi đây, sau khi giặc giã dẹp yên, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi 
nào đứng trong trời đất nữa.
 Cả hai đều khẳng định chỉ có con đường là chiến đấu đến củng để bảo vệ tồ 
quốc.
Câu 2: Tìm những câu trần thuật có mục đích cầu khiến. Cho biết hình thức diễn 
đạt, tác dụng trong việc động viên quần chúng.
a/ Câu trần thuật: thực hiện hành động cầu khiến, kêu gọi.
b/ (1) câu trần thuật : trình bày bộc lộ cảm xúc.
(2) cầu khiến: kêu gọi.
+ Tác dụng: cách dùng gián tiếp tạo sự đồng cảm sâu sắc, khiến cho nguyện vọng 
của lãnh tụ trở thành nguyện vọng thân thiết của mỗi người. Thuyết phục bằng lời 
lẽ nhẹ nhàng
2. Hội thoại
.Vai xã hội là vị trí của người tham gia hội thoại đối với người khác trong cuộc 
thoại. Vai xã hội được xác định bằng các quan hệ xã hội :
-Quan hệ trên dưới hay ngang bằng
-Quan hệ thân sơ
.Vì quan hệ xa hội vốn đa dạng nên vai xã hội của mỗi người cũng đa dạng, nhiều 
chiều . Khi tham gia hội thoại,mỗi người cần xác định đúng vai của mình để chọn 
cách nói cho phù hợp. 
*Bài tập:sgk
Câu 1 : Tìm chi tiết trong bài “Hịch tướng sĩ”, thể hiện thái độ vừa nghiêm khắc 
vừa khoan dung của Trần Quốc Tuấn đối với binh sĩ dưới quyền? cách nói cho phù hợp. 
C:TẬP LÀM VĂN
*BÀI VIẾT SỐ 6
Đề 1: Dựa vào các văn bản Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ , hãy nêu suy nghĩ 
của em về vai trò của những người lãnh đạo anh minh như Lí Công Uẩn và 
Trần Quốc Tuấn đối với vận mệnh đất nước.
 Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam luôn 
gắn liền với tên tuổi của những người anh hùng dân tộc vĩ đại. Tài năng kiệt xuất 
và đức độ cao cả của họ đã có ảnh hưởng quyết định đến vận mệnh đất nước. Đọc 
lại áng văn Chiếu dời đô của Lí Công uẩn và Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, 
chúng ta thấy sáng ngời nhân cách và hành động vì dân vì nước của họ. Qua đó, 
chúng ta hiểu rõ vai trò của người lãnh đạo anh minh có ý nghĩa vôcùng to lớn 
trong sự phát triển của dân tộc dù lúc đất nước lâm nguy hay thái bình, thịnh 
vượng.
 Đất nước có giặc, hoạ ngoại xâm đe doạ nền hòa bình của dân tộc cũng là 
lúc cần đến những vị tướng tài ba. Trần Quốc Tuấn ghi dấu trong lịch sử dân tộc 
và để lại ấn tượng sâu đậm về một võ tướng có một không hai trong lịch sử chống 
ngoại xâm. Trần Quốc Tuấn gắn tên mình với Bạch Đằng, Chương Dương, Hàm 
Tử. Là người đã bẻ gẫy ý đồ xâm lược hung hăng của đế quốc Nguyên - Mông. 
Nhà quân sự kiệt xuất này có những chiến công hiển hách là nhờ ông quan tâm 
tới vận mệnh nước nhà bằng trái tim và ý chí của một anh hùng dân tộc. Cái tâm 
và cái tài của một vị tướng, một người con yêu nuớc,trung với vua được thể hiện 
rõ nét trong áng văn bất hủ “Hịch tướng sĩ”. Đọc “Hịch tướng sĩ” ta ngỡ như 
nghe tiếng nói của cha ông, của non nước. Nó nồng nàn tinh thần yêu nước, biểu 
hiện lòng câm thù giặc sâu sắc, ý chí quyết chiến quyết thắng quân thù, không chỉ 
là của riêng Trần Hưng Đạo mà là kết tụ trong đó những ý nguyện tình cảm của 
dân tộc yêu tự do và giàu tự trọng.
 Trước tai hoạ đang đến gần : quân Mông - Nguyên lăm le xâm lược lần thứ 
hai với tâm địa không cho một ngọn cỏ của nước Đại Việt mọc dưới vó ngựa của 
năm mươi vạn quân. Trần Quốc Tuấn đã viết “Hịch” để kêu gọi tướng sĩ một 
lòng đương đầu với cuộc chiến sống còn. Nhũng lời lẽ đanh thép mà chan chứa 
tình cảm, những lí lẽ sắc bén mà đi vào lòng người đã chỉra cho tướng sĩ thấy tội 
ác của bọn sứ giặc và những việc cần làm để chống giặc. Trần Quốc Tuấn đau nỗi 
đau của dân tộc, nhục cái nhục quốc thể. Tác giả ngứa mắt khi thấy “sứ giặc đi lại 
nghênh ngang”, ngứa tai khi chúng “uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình”. Tác 
giả rất khinh bỉ, đã “vật hoá” chúng, gọi là “dê chó”, là “hổđói”. Ông mượn 
những tấm gương bậc nghĩa sĩ trung thần đã xả thân vì đất nước, vì nhân dân để 
khích lệ lòng tự trọng ởcác tướng sĩ. Ông cũng biết lấy những suy nghĩ, việc làm thấy Hoa Lư không còn phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Vì ông 
muốn đóng đô ởnơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con 
cháu nên ông đã ban bố Chiếu dời đô vào năm 1010 để “trên vâng mệnh trời dưới 
theo ý dân ”, tỏ bày ý định rời kinh đô cũ từ Hoa Lư (Ninh Bình)khi ông mới 
được triều đình tôn lên làm hoàng đế. Nơi đấy không phải là Hoa Lư chật hẹp, 
mà là một nơi địa thế rộng, bằng, đất đai cao thoáng. Một nơi thuận lợi về tất cả 
mọi mặt thì nhân dân được ấm no, thanh bình, việc dời đô đã hợp với thiên thời 
địa lợi nhân hòa. Nơi ấy là thành Đại La (tức Hà Nội ngày nay). Sau đó, ông đổi 
tên kinh đô thành Thăng Long. Dời đô ra Thăng Long là một bước ngoặt rất lớn. 
Nó đánh dấu sự trưởng thành của dân tộc đại Việt. Cũng là khởi đầu sự nghiệp 
lẫy lừng của nhà Lí - triều đại có ý nghĩa hết sức quan trọng đưa văn hiến của 
nước nhà đến đỉnh cao vòi vọi. Kinh đô Thăng Long quả là cái nối lập đểnghiệp 
cho muôn đời là nơi để cho sơn hà xã tắc được bền vững muôn đời. Lịch sử của 
các nước có nền văn minh lâu đời đều có những cuộc dời đô như thế. Mỗi lần dời 
là một thử thách của dân tộc. Đó phải là quyết định của những đầu óc ưu tú nhất 
thời đại. Nói cách khác, không có ý chí quyết tâm lớn, không có tầm nhìn thấu cả 
tương lai thì Lí Công uẩn không thể nói đến chuyện dời đô.
 Mở đầu bài chiếu, nhà vua giải thích tại sao lại dời đô. Và bằng lập luận 
ngắn gọn nhưng sắc sảo, cùng với dẫn chừng thiết thực, nhà vua đã khẳng định: 
việc dời đô không phải là hành động, là ý muốn nhất thời của một người. Nó là 
biểu hiện cho xu thế tất yếu của lịch sử. Lí Công uẩn tuyệt vời là đã hiểu được 
khát vọng của nhân dân, khát vọng của lịch sử. Dân tộc Việt không chỉ là nước 
độc lập. Muốn bảo vệ được điều ấy thì non sông, nhân tâm con người phải thu về 
một mối. Tất cả thần dân phải có ý chí tự cường để xây dựng nước Đại Việt thành 
quốc gia thống nhất vững mạnh, ông tâm đắc và rất vui vì tìm một nơi “trung tâm 
của trời đất”, nơi có thể“rồng cuộn hổngồi”, hào hứng nói tới cái nơi “đúng ngôi 
nam bắc đông tây" lại “nhìn sông dựa núi”. Nơi đây là mảnh đất lí tưởng dân cư 
khỏi chịu cảnh khốn khổ và ngập lụt, muôn vật rất mực phong phú tốt tươi.” Thật 
cảm động trước tấm lòng của vị vua anh minh, quan tâm tới nhân dân, tìm chốn 
lập đô cũng vì dân, mong cho dân được hạnh phúc. Dời đô ra Thăng Long là một 
bước ngoặt rất lớn. Nó đánh dáu sự đất thành của dân tộc Đại Việt. Chúng ta đã 
đủ lớn mạnh để lập đô ở nơi có thể đưa nước phát triển đi lên, đưa đất nước trở 
thành quốc gia độc lập sánh vai với phương Bắc.
 Có thể nói, với trí tuệ anh minh, với lòng nhân hậu tuyệt vời, nhà vua Lí 
Công Uẩn đã bày tỏý định với các quan trong triều ý định dời đô giàu sức thuyết 
phục. Những điều vua nói cách đây cả ngàn năm nhưng hôm nay nhìn lại vẫn giữ 
nguyên tính chân lí của nó. Trải qua bao thăng trầm, con rồng ấy vẫn bay lên bầu 
trời như thách thức sự vô hạn của thời gian.“Chiếu dời đô” là áng văn xuôi cổđộc 
đáo, đặc sắc, đúng là khẩu khí của bậc đế vương. Đó là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn 
và trí tuệ Việt Nam. Nó khơi dậy trong lòng nhân dân ta lòng tự hào và ý chí tự 
cường mạnh mẽ. Triều đại nhà Lí rất vẻ vang với sự khởi thuỷ là vị vua anh minh 
Lí Thái Tổ, nước Đại Việt viết tiếp những trang sử vàng chói lọi của mình.
 Đọc lại áng văn “Chiếu dời đô" của Lí Công uẩn và bản hùng văn bất hủ 
muôn đời “Hịch tướng sĩ“ của Trần Quốc Tuấn, chúng ta thấy sáng ngời nhân 
cách và hành động vì dân vì nước của họ. Qua đó, chúng ta hiểu rõ vai trò của minh, Bác học trên thế giới cũng thành công qua việc tự học, tự mài mò qua sách 
như Êđixơn, An-be Anh-xtanh,... Hay chính vị lãnh tụ vĩ đại của nước Việt Nam 
ta- Chủ tịch Hồ Chí Minh qua việc chịu khó đọc sách, đã phát hiện và ứng dụng 
chủ nghĩa Mác lê-nin vào con đường giải phóng dân tộc, cuối cùng đã thành 
công, giúp dân ta thoát khỏi cảnh nô lệ. Đó chẳng phải đều là những nhân chứng 
hùng hồn cho câu nói của M. Go-rơ-ki: "Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ 
có kiến thức mới là con đường sống”. Từ đó ta thấy mỗi cuốn sách đều là một 
bậc thang nhỏ đưa ta tới gần quan niệm về cuộc sống tốt đẹp nhất. Với vai trò lớn 
lao như thế, ta thấy sách là một vật nhỏ bé nhưng vĩ đại. Thế mà trong xã hội 
ngày nay, không ít những thành phần lười đọc sách, khinh chê và không tôn trọng 
sách. Họ không biết rằng sách chứa đựng kiến thức, kiến thức lại bao bọc thành 
công. Không một ai bước đi trên con đường thành đạt mà không song hành cùng 
kiến thức. Không có kiến thức, con người sẽ trở nên vô dụng, lạc hậu, thấp kém 
trong một xã hội hiện đại hóa như bây giờ. Thế giới này sẽ ra sao nếu không có 
sách, không có kiến thức? Mọi thứ sẽ bước vào một thời kì tăm tối của sự ngu 
muội. Lúc này chỉ có kiến thức mới là chiếc chìa khóa mở ra cánh cửa tương lai 
tốt đẹp, là con đường sống duy nhất của con người
 Sách là cây đèn thần soi sáng cho con người trên những nẻo đường xa xôi 
nhất và tăm tối nhất của cuộc đời. Vì vậy ta phải yêu sách. Phải chăm chỉ đọc 
sách mà thực sự hiểu nó, đam mê nó. Tuy nhiên, ta cần chọn lọc ra những kiến 
thức hữu dụng và đúng đắn - Một cuốn sách tốt mở ra thì gợi niềm hy vọng, khép 
lại thì đem lại điều hữu ích. Bên cạnh đó chúng ta cũng cần biến những kiến thức 
trong sách vở thành thực tế qua thực hành ứng dụng vào thực tiển cuộc sống. 
Quan trọng là thái độ của chúng ta đối với sách, cần yêu quý, giữ gìn và nâng niu 
sách như một báu vật.
 Quả thật câu nói của M.Go-rơ-ki là một lời khuyên vô cùng chính xác. 
Sách đúng là kho tàng trí tuệ của nhân loại là giá trị vô giá của loài ngươi. Tuy 
sách rất quí nhưng không tự đến với con người mà con người phải tìm lấy sách để 
đọc. Chỉ có việc đọc sách mới đưa con người đến một tương lai tươi sáng và tốt 
đẹp hơn.
 ===================
 . 

File đính kèm:

  • docxde_cuong_on_tap_lan_2_hoc_ki_ii_mon_ngu_van_lop_8_tuan_6_den.docx