Sáng kiến kinh nghiệm Áp dụng đổi mới phương pháp trong dạy học Tiếng Việt ở tiểu học

doc 23 Trang Bình Hà 44
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Áp dụng đổi mới phương pháp trong dạy học Tiếng Việt ở tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Áp dụng đổi mới phương pháp trong dạy học Tiếng Việt ở tiểu học

Sáng kiến kinh nghiệm Áp dụng đổi mới phương pháp trong dạy học Tiếng Việt ở tiểu học
 Sáng kiến kinh nghiệm
 PHẦN: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
 Có thể nói những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo được hình thành ở bậc tiểu học rất 
bền vững, nó đi theo các em suốt cả cuộc đời khó mà thay đổi được. Trong xã hội hiện 
nay, lứa tuổi học sinh tiểu học ứng với độ tuổi từ 6 - 11 tuổi. Đây là lứa tuổi mà lần 
đầu tiên các em được cắp sách tới trường, được làm quen với nền văn hoá nhà trường. 
Đặc biệt là có sự chuyển giao hoạt động chủ đạo là vui chơi ở lứa tuổi mẫu giáo sang 
học tập ở lứa tuổi học sinh tiểu học. 
 Môn Tiếng Việt ở tiểu học có nhiệm vụ, hình thành năng lực ngôn ngữ cho học 
sinh tiểu học. Những năng lực ngôn ngữ này chỉ có được khi giáo viên tổ chức cho học 
sinh thực hiện thành thục từng thao tác, hành động của quá trình dạy học Tiếng Việt và 
hứng thú với việc thực hiện nó. Mặt khác để tổ chức tốt quá trình giao tiếp cho học 
sinh trong quá trình dạy học Tiếng Việt thì việc tạo ra môi trường thuận lợi, xây dựng 
mối quan hệ hợp tác cùng phát triển giữa học sinh - học sinh; học sinh - giáo viên là 
điều quan trọng.
 Tuy nhiên, thực tiễn dạy học Tiếng Việt ở tiểu học cho thấy về phương pháp 
dạy học bên cạnh những thành công còn có nhiều bất cập nhất định. Số đông giáo 
viên chưa nhận thức được hết tầm quan trọng của việc tạo ra môi trường, điều kiện 
cho học sinh hoạt động lĩnh hội tri thức; Hơn nữa sự bùng nổ của nền kinh tế tri thức 
làm cho trình độ nhận thức của học sinh ngày càng cao hơn trình độ của học sinh cùng 
lứa tuổi trước đây. Vì vậy nhà trường phải rèn luyện cho học sinh tính tích cực, năng 
động, sáng tạo bằng cách sớm chuyển sang phương pháp dạy học mới theo hướng tích 
cực hoá hành động học tập của học sinh thông qua việc tổ chức cho các em các hoạt 
động học tập và giao lưu, hợp tác với bạn với thầy để lĩnh hội kiến thức một cách sáng 
tạo, chủ động.
 Đổi mới phương pháp dạy học đã đề ra chiến lược dạy học có khả năng đáp ứng 
được yêu cầu trên. Đó chính là lý do khiến chúng tôi chọn sáng kiến kinh nghiệm: 
"Áp dụng đổi mới phương pháp trong dạy học Tiếng Việt ở tiểu học".
2. Mục đích nghiên cứu
 Góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt ở tiểu học thông qua 
việc sử dụng đổi mới phương pháp dạy học một cách hợp lý.
 Trang 2 Sáng kiến kinh nghiệm
sinh; học sinh - học sinh; giáo viên - học sinh - môi trường chưa cao. Hoạt động học 
tập của học sinh thông qua thảo luận nhóm, trò chơi học tập không trở thành hoạt động 
của từng cá nhân học sinh và của cả tập thể học sinh. Hoạt động học tập thông qua vui 
chơi của trẻ nhiều khi không phù hợp với nội dung bài học. Chẳng hạn, khi dạy bài tập 
đọc ''Người mẹ hiền'' TV 2 có giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi đóng vai để 
diễn tả lại cảnh Nam và Minh chui qua lỗ hổng ở bờ tường. Thành ra tuy có sự đổi mới 
phương pháp dạy học giữa giáo viên - học sinh, học sinh - học sinh song sự đổi mới 
phương pháp dạy học đó lại không nhằm vào củng cố mở rộng, khắc sâu bài học mà 
chỉ dừng lại ở mức độ minh hoạ cho lý thuyết về đa dạng hoá các phương pháp dạy 
học một cách máy móc, dập khuôn, khi sử dụng các phương pháp dạy học như giảng 
giải, hỏi đáp giáo viên không chú ý tạo ra mối liên hệ ngược từ phía học sinh đến giáo 
viên. Hình thức tổ chức dạy học còn đơn điệu chủ yếu là dạy học cả lớp, ít có dạy học 
cá nhân, dạy học theo nhóm. Khi tổ chức dạy học theo nhóm hiệu quả cũng chưa cao.
 1.2. Về phía học sinh
 Môn học Tiếng Việt hầu hết các em đều dành thái độ, tình cảm tốt đẹp đối với 
môn học này, nhưng các em cũng cho rằng đây là môn học khó. Một phần do ngữ liệu 
xa rời cuộc sống của các em, trong sách giáo khoa có nhiều bài tập, câu hỏi suất hiện 
quá nhiều như câu hỏi tái hiện trong phần môn tập đọc, bài tập điền từ trong phần ngôn 
từ ngữ,...gây tâm lý nhàn chán, đơn điệu ở học sinh khi học, không kích thích được sự 
hợp tác giữa giáo viên - học sinh trong việc giải quyết các nhiệm vụ học tập. Phần 
khác do cách thức lên lớp của giáo viên không kích thích được hứng thú học tập của 
các em, không tạo điều kiện cho mọi học sinh trong lớp được hoạt động, một giờ dạy 
được đánh giá là thành công khi trong giờ dạy đó có một vài học sinh tham gia phát 
biểu ý kiến, số học sinh còn lại làm gì giáo viên không kiểm soát được. Ví dụ trong 
phân môn Tập Đọc học sinh rất hứng thú khi đọc các ngữ liệu, nhưng đến khi giáo 
viên dạy Tập Đọc thì chỉ có một số em làm việc, số khác ngồi chơi hoặc làm việc 
khác.
2. Nguyên nhân của thực trạng
 Môn Tiếng Việt chiếm 35% tổng số quỹ thời gian dành cho các môn học ở tiểu 
học. So với các môn học khác đây là môn học có dung lượng kiến thức lớn. Vì vậy 
khó khăn đầu tiên đối với giáo viên tiểu học là kiến thức chưa được trang bị đầy đủ, 
điều này ảnh hưởng sâu sắc tới việc sử dụng các phương pháp dạy học (Bởi nội dung 
 Trang 4 Sáng kiến kinh nghiệm
 Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm để dạy học cần thực hiện các trình tự sau: 
Giáo viên chia lớp thành các nhóm; giao nhiệm vụ thảo luận cho từng nhóm; sau đó 
giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm; đại diện các nhóm trình bày kết 
quả thảo luận của nhóm mình, các thành viên khác trong lớp trao đổi ý kiến, tranh 
luận, bổ xung; giáo viên lắng nghe ý kiến của các nhóm, tổng kết, đánh giá và khẳng 
định ý kiến đúng.
 Phương pháp này được sử dụng để dạy học nhiều loại bài tiếng Việt như: Khi 
học các tri thức từ ngữ, ngữ pháp mới, thảo luận để tìm ra nội dung bài tập đọc,... Để 
có thể sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học Tiếng Việt cần tiến hành 
các bước sau:
 Trước tiên giáo viên chia lớp thành các nhóm, số lượng học sinh trong một nhóm 
phụ thuộc vào nội dung thảo luận nhưng phải đảm bảo cho mọi học sinh đều được 
trình bày ý kiến của mình, bàn bạc trao đổi ý kiến với bạn. Có nhiều cách để chia 
nhóm: Có thể chia nhóm cố định suốt một học kỳ, một năm học, có thể chia nhóm tạm 
thời trong một tiết học, thậm chí trong một bài tập để thực hiện nhiệm vụ học tập, lúc 
này người ta thường áp dụng cách chia nhóm ngẫu nhiên,... Ở mỗi nhóm có một nhóm 
trưởng, nhóm trưởng là người chịu trách nhiệm điều khiển hoạt động thảo luận, trao 
đổi giữa các thành viên trong một nhóm, nhóm trưởng này có thể do giáo viên chỉ 
định hoặc do các thành viên trong nhóm tự bầu.Để tạo hứng thú cho học sinh trong 
quá trình thảo luận, có thể đặt tên cho mỗi nhóm, việc đặt tên này có thể do giáo viên 
chỉ định hoặc do nhóm tự chọn, ví dụ: Nhóm Sơn Ca, nhóm Thỏ Trắng,...
 Sau khi chia lớp thành các nhóm giáo viên giao nhiệm vụ thảo luận cho từng 
nhóm. Nhiệm vụ thảo luận nhóm là nhân tố quyết định mức độ hợp tác giữa các thành 
viên trong nhóm cũng như hiệu quả cuả sự tác động giữa giáo viên - học sinh. Thật 
vậy, nếu nhiệm vụ học tập quá khó học sinh không có ý kiến trao đổi thì cuộc thảo 
luận trở thành bế tắc, nếu nhiệm vụ quá dễ hoặc là những vấn đề học sinh đã biết, 
không cần động não, trao đổi thì cũng có thể tìm ra lời giải đúng, thì cuộc thảo luận trở 
thành đơn điệu. Nhiệm vụ thảo luận của phải đảm bảo các yêu cầu sau:
 Có tác dụng kích thích sự suy nghĩ, trao đổi, hợp tác của từng học sinh và của cả 
tập thể, cũng như gây sự tò mò chý ý cho các học sinh. Chẳng hạn, giáo viên có thể 
yêu cầu học sinh đặt tên khác cho một đoạn, cho cả bài (Loại câu hỏi này được sử 
dụng trong hầu hết các giờ tập đọc). Hay: Hãy trao đổi với bạn để tìm ra câu trả lời 
 Trang 6 Sáng kiến kinh nghiệm
nội dung một. Giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận để dự kiến các tình huống có 
thể xảy ra. (Nhân vật trong chuyện - TV 4),...
 Như vậy, không phải bất cứ nội dung nào của bài học cũng có thể đưa ra thảo 
luận, chỉ có những vấn đề đảm bảo những yêu cầu trên mới nêu thành câu hỏi thảo 
luận. Bên cạnh đó câu hỏi thảo luận còn phải rõ ràng, cụ thể phù hợp với nội dung bài 
học, trình độ nhận thức của học sinh. 
 Sau khi nhận nhiệm vụ, các thành viên trong nhóm ngồi quay mặt lại với nhau 
để tiến hành bàn bạc, thảo luận, từng thành viên đưa ra ý kiến của mình, cả nhóm 
bàn bạc và chọn ra ý kiến hợp lý nhất để trình bày trước lớp. Như đã nói ở trên 
những câu hỏi và bài tập này không yêu cầu học sinh tái hiện lại nội dung bài học một 
cách máy móc, dập khuôn, do đó trong quá trình thảo luận ở những học sinh khác nhau 
sẽ có những ý kiến khác nhau về nó, nhất là đối với những câu hỏi mở. Chẳng hạn: 
Sau khi đọc xong chuyện " Những quả đào" (TV 2) có học sinh thích bạn Việt vì bạn 
Việt là người nhân hậu, biết chia sẻ niềm vui cho bạn, biết quan tâm đến bạn,... Có học 
sinh thích bạn Vân vì sự hồn nhiên ngây thơ của bạn, vì bạn cũng háu ăn giống em,... 
Có học sinh thích người ông vì ông là người quan tâm đến các cháu đi đâu cũng mang 
quà về cho các cháu, vì người ông trong chuyện giống với ông của em,... Hay có học 
sinh thích bạn Xuân vì sự hồn nhiên, nhanh nhảu, vì em cũng thường đem hạt trồng 
trong một cái vò giống bạn,...Hay khi được hỏi về mục đích của bài "Gà trống và cáo" 
(TV 4) cũng có nhiều ý kiến khác nhau như có học sinh cho rằng mục đích của bài là 
kể chuyện con cáo gian ngoan bị mắc mưu gà, ca ngợi sự thông minh của con gà, hay 
câu chuyện khuyên người ta đừng vội tin những lời ngọt ngào,... Song dù đưa ra ý kiến 
như thế nào thì điều quan trọng là các em giải thích, chứng minh được vì sao em đưa 
ra ý kiến đó để thuyết phục người nghe làm cho họ cũng đồng tình với ý kiến của 
mình. Chính vì vậy trong quá trình thảo luận nhóm giữa từng học sinh trong nhóm 
cũng sẽ có sự bàn bạc, lắng nghe, trao đổi, đánh giá ý kiến của nhau để từ đó chọn ra ý 
kiến hợp lý nhất. Như vậy trong bản thân nhóm đã có sự đổi mới phương pháp dạy học 
giữa các thành viên.
 Khi các nhóm đã lựa chọn được cách giải quyết hợp lý nhất dưới sự tổ chức của 
giáo viên đại diện các nhóm lần lượt trình bày ý kiến của nhóm mình trước lớp, các 
nhóm khác tập trung lắng nghe và thể hiện quan điểm của mình về ý kiến của 
nhóm bạn (Đồng ý hay không đồng ý? Vì sao?), nhóm vừa trình bày phải giải 
 Trang 8 Sáng kiến kinh nghiệm
 Cách 2: Cho học sinh chia nhóm để các nhóm có thể thảo luận một cách dễ dàng, 
giáo viên có thể biên soạn lại những câu hỏi trong sách giáo khoa thành những vấn đề 
lớn như: Người nông dân dặn con điều gì trước khi mất? Hai con đã thực hiện ra sao? 
Họ hiểu kho báu mà người cha dặn nghiã là gì? Sau đó giáo viên giao cho mỗi nhóm 
thảo luận một vấn đề và trình bày ý kiến của nhóm về vấn đề đó. Cách dạy này có khả 
năng lôi cuốn học sinh cùng tham gia tìm hiểu nội dung bài. Những hiểu biết mà học 
sinh thu được trong quá trình thảo luận là do kết quả của sự khám phá hợp tác của học 
sinh.
 Như vậy trong thảo luận nhóm quan hệ giữa học sinh - học sinh, học sinh - giáo 
viên là quan hệ biện chứng, thống nhất với nhau nó làm cho hiệu quả dạy học được 
nâng cao. Vậy yếu tố môi trường trong thảo luận nhóm là gì? Nó có ảnh hưởng như 
thế nào đối với cả giáo viên và học sinh? Có thể nói môi trường trong thảo luận nhóm 
chính là không khí học tập tích cực, sôi nổi giữa từng thành viên trong nhóm, giữa các 
nhóm và giữa học sinh với giáo viên. Bầu không khí này được hình thành trên cơ sở 
giáo viên giao nhiệm vụ phù hợp với nhận thức của học sinh làm kích thích sự suy 
nghĩ, hợp tác của các em, là tâm thế của học sinh khi thảo luận. Khi bầu không khí này 
được hình thành thì nó lại làm cho học sinh hứng thú hơn trong việc từ đó mà hiệu 
quả thảo luận được nâng lên. Tuy nhiên trong quá trình dạy học không nên lạm dụng 
hình thức này, chỉ những vấn đề cần thiết (có thể thảo luận được) mới nêu thành đề tài 
thảo luận. Và để có thể dạy học theo cách này đạt hiệu quả cao, thì giáo viên giữ vai 
trò đặt biệt quan trọng bởi với tư cách là người hướng dẫn giáo viên một mặt phải lựa 
chọn nội dung thảo luận cho phù hợp với nội dung bài học, nhận thức của học sinh, 
mặt khác phải có khả năng tổ chức, bao quát lớp học
 1.2. Phương pháp trò chơi
 Đối với học sinh Tiểu học học tập là hoạt động chủ đạo, tuy nhiên vui chơi vẫn 
chiếm vị trí quan trọng đời sống của các em. Với tư cách là một phương pháp dạy học, 
phương pháp trò chơi là cách thức giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động theo một 
luật chơi nhất định thông qua đó giúp các em lĩnh hội, củng cố, mở rộng kiến thức, 
luyện tập các kỹ năng, kỹ xảo một cách sinh động nhẹ nhàng, đem lại hiệu quả cao. Như 
vậy trò chơi học tập là một loại trò chơi đặc biệt chỉ có trong quá trình dạy học. Mục đích 
của nó không chỉ nhằm giải trí mà còn góp phần củng cố tri thức, kỹ năng học tập cho học 
sinh, tạo cơ hội giao lưu với mọi người, cùng hợp tác với bạn bè, đồng đội trong nhóm, đội. 
 Trang 10 Sáng kiến kinh nghiệm
thử để làm quen với trò chơi trước khi chơi thật. Trong khi học sinh tiến hành chơi giáo viên 
cùng tổ trọng tài chú ý quan sát cách chơi của các đội, nhắc nhở những đội, những học sinh 
chơi chưa tốt, sai luật. Khi có lệnh “Kết thúc” học sinh ngừng chơi, tổ trọng tài kiểm tra kết 
quả chơi của các đội dưới sự giám sát chặt chẽ của giáo viên và tuyên bố đội thắng. Lúc này 
giáo viên trong vai trò là trọng tài chính sẽ đưa ra nhận xét cuối cùng về cách chơi, kết quả 
cũng như thái độ của từng đội, từng học sinh trong khi chơi, nhận xét của giáo viên có tác 
dụng giúp học sinh điều chỉnh cách chơi, thái độ,... 
 Tóm lại: Từ quy trình tổ chức trò chơi học tập như trên chúng ta thấy: Trong trò 
chơi học tập có sự đổi mới phương pháp dạy học giữa học sinh - học sinh, học sinh - 
giáo viên, học sinh - giáo viện - môi trường, cụ thể là: Để có thể ''Chơi'' được trong 
nhóm thì học sinh phải thảo luận, phải trao đổi với nhau để giải quyết các yêu cầu do 
trò chơi đặt ra, đồng thời phải hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau để tiến hành trò chơi một cách 
nhịp nhàng, nhanh chóng. Không những thế thông qua việc cùng chơi với bạn, học 
sinh có thể nhận được những tín hiệu đồng tình hay không đồng tình của bạn để điều 
chỉnh cách chơi cho phù hợp, sau khi trò chơi kết thúc dưới sự hướng dẫn của giáo 
viên học sinh còn được tham gia vào quá trình đánh giá sản phẩm do chính mình tạo 
ra. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc phát huy vai trò người “Thợ chính” của 
học sinh, làm cho sự đổi mới phương pháp dạy học giữa học sinh - học sinh được tăng 
cường.
 Trong trò chơi sự tác động qua lại giữa giáo viên - học sinh thể hiện ở chỗ 
giáo viên thực hiện tác động sư phạm đến học sinh thông qua việc tổ chức trò chơi học 
tập cho học sinh. Còn học sinh trong quá trình tham gia trò chơi đã thể hiện mức độ 
nắm vững kiến thức, mức độ thành thục mặt kỹ năng, thái độ của học sinh khi chơi, 
mức độ hợp tác giao lưu với bạn,... đó là những tín hiệu ngược phát ra từ phía học sinh 
nó là cơ sở để giáo viên xác định hiệu quả của tác động sư phạm để từ đó mà có biện 
pháp duy trì hoặc điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy của mình cũng như những 
thái độ hoạt động tiêu cực từ phía học sinh. Trong phương pháp dạy học này tâm thế, 
sự hứng khởi của học sinh khi chơi dưới sự hướng dẫn của giáo viên đã tạo ra môi 
trường học tập sôi nổi, hào hứng có tác dụng kích thích học sinh chơi tốt hơn, học tốt 
hơn. Như vậy trong quá trình dạy học thông qua việc tổ chức trò chơi học tập cho học 
sinh sự đổi mới phương pháp dạy học giữa giáo viên - học sinh - môi trường diễn ra 
mạnh mẽ và tất cả sự đổi mới phương pháp dạy học đó đều nhằm mục đích tác động 
 Trang 12 Sáng kiến kinh nghiệm
một nghĩa của từ ''Đánh'' . Ví dụ: Dùng roi để làm cho đau; Dùng một vật tác động 
vào một vật khác để tạo ra âm thanh; định giá trị cho kết quả học tập, làm xảy ra 
việc không may do sơ xuất ... Giáo viên chuẩn bị 4 tờ giấy khổ rộng cho 4 đội.
 Cách tiến hành:
 - Luật chơi: Mỗi đội được phát 5 thẻ ghi rõ kết hợp của từ ''đánh'' và 5 thẻ ghi rõ 
nghĩa của từ ''đánh'' tương ứng với các kết hợp trên. Khi có lệnh ''bắt đầu'' các thành 
viên trong đội trao đổi để ghép lời giải nghĩa của từ ''Đánh'' trong mỗi kết hợp sau 
đó nhanh chóng dán cặp lời giải vào giấy khổ rộng rồi dán lên bảng để cho các bạn 
(đội khác) và giáo viên kiểm tra, cho điểm. Đội nào làm đúng, nhanh là thắng. 
 - Phân công chơi: Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm đội, cử đội trưởng phát giấy 
khổ rộng cho các nhóm.
 - Tiến hành chơi: Học sinh bàn bạc, trao đổi để ghép lời giải nghĩa chứa từ 
“đánh” trong mỗi kết hợp, chẳng hạn: “Dùng roi để làm cho đau” ghép với kết hợp 
“đánh mấy roi”; “Dùng một vật tác động vào một vật khác để tạo ra âm thanh” ghép 
với kết hợp “đánh trống khua chiêng”...
- Nhận xét: Giáo viên và học sinh dựa vào số lượng và độ chính xác của cặp lời giải, 
mức độ làm xong nhanh hay chậm của các nhóm.
Trò chơi 3 : Trò chơi: Ai tìm từ giỏi.
 Được sử dụng cho tất cả các bài ôn tập phần học vần ở lớp 1.
 - Tên trò chơi: : Ai tìm từ giỏi.
 - Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị các thẻ hình chữ nhật trên đó ghi các âm, vần 
học sinh đã được học trong tuần. Ví dụ: Ở tuần 7 có các vần, ai, ai, ôi, ơi, ưu, ui, 
ưi, ươi, uôi, ay, ây.
 - Cách thức tiến hành : 
 - Luật chơi: Khi trọng tài lấy một thẻ chữ bất kỳ giơ cho mọi người nhìn rõ và 
hô ''bắt đầu'' từng thành viên trong nhóm nhanh chóng thảo luận để tìm từ, tiếng có âm 
vần có trong thẻ chữ và ghi vào giấy. Hết thời gian quy định các nhóm nhanh chóng 
dán kết quả lên bảng để tổ trọng tài kiểm tra và ghi điểm
 - Phân công chơi: + Giáo viên chia lớp thành các nhóm nhỏ, số lượng thành 
viên trong mỗi nhóm là như nhau, mỗi nhóm chuẫn bị một mảnh giấy nhỏ trên đó 
ghi sẵn tên của nhóm.
 + Giáo viên cử 1 nhóm từ 3 -5 học sinh làm trọng tài.
 Trang 14 Sáng kiến kinh nghiệm
 4) Khi ăn hết, ............................................................ bèn quẳng chiếc hộp đi.
 5) .......................... không muốn chia cho ........................ cùng ăn.
 6) .................... bèn gói cẩn thận những hạt kê còn sót lại vào chiếc lá rồi đi tìm 
người bạn thân của mình.
 7) Gió đưa những hạt kê trong hộp bay xa.
 8) ....................................... vui vẻ đưa cho ........... một nửa.
 9) .......... ngượng nghịu nhận quà của ............... và "tự nhủ............ đã cho mình một 
bài học quý giá về tình bạn.”
(“Kể lại hành động nhân vật” - TV 4)
Phiếu 2:
Câu 1: Câu nào trong đoạn văn sau em cho là khó đọc ? Dùng một gạch xiên ( / ) thể 
hiện chỗ ngắt giọng, một gạch đứng ( | ) thể hiện chỗ nghỉ và gạch chân dưới những từ 
ngữ cần nhấn giọng trong câu đó:
 a) “Có một cậu bé được bà sai đi chợ. Bà đưa cho cậu haiđồng và hai cái bát, 
dặn:
 - Cháu mua một đồng tương, một đồng mắm nhé !....”
 b) “Cậu bé vâng dạ, đi ngay. Gần tới chợ, cậu bỗng hớt hải chạy về hỏi bà:
 - Bà ơi, bát nào đựng tương, bát nào đựng mắm ? 
Bà phì cười.
 - Bát nào đựng tương, bát nào đựng mắm mà chẳng được !...”
 c) “Cậu bé lại ra đi. Đến chợ, cậu lại ba chân bốn cẳng chạy về hỏi :
 - Nhưng đồng nào mua mắm, đồng nào mua tương ạ ?”
Câu 2: Nối nhân vật với giọng đọc của nhân vật mà em cho là đúng.
 Cậu bé Trầm, nhẹ nhàng, không nén nổi buồn cười.
 Bà Chậm rãi, hài hước.
 Người dẫn chuyện Ngây thơ, ngốc nghếch, trong sáng.
Câu 3: Đánh dấu nhân vào ô trống em lựa chọn.
 Truyện vui “Đi chợ” nói lên sự thông minh, nhanh trí của cậu bé.
 Truyện vui “Đi chợ” nói đến chuyện tương và mắm ở quê cậu bé rất ngon.
 Truyện vui “Đi chợ” nói lên sự ngây thơ ngốc nghếch của cậu bé.
Câu 4: Nếu được trả lời cậu bé thay bà, em sẽ nói với cậu bé như thế nào?
 (“Đi chợ” - TV ).
 Trang 16 Sáng kiến kinh nghiệm
hiểu sâu, rộng những kiến thức, kỹ năng này bởi “Sáng tạo ra sự vật là cách tốt nhất để 
hiểu sự vật”.
 Trong quá trình tác động đến học sinh, giáo viên cũng thu được những tín hiệu 
ngược lại từ phía học sinh cụ thể là: Thông qua quá trình tổ chức, hướng dẫn học sinh 
học tập và đánh giá kết quả học tập của học sinh, giáo viên có thể biết được tác động 
sư phạm của mình là tích cực hay tiêu cực để từ đó có biện pháp duy trì hoặc điều 
chỉnh nó. Như vậy thông qua phiếu học giáo viên đã tác động tới học sinh và học sinh 
cũng tác động trở lại giáo viên.
 Trong khi thực hiện cùng một nhiệm vụ học tập ở những học sinh khác nhau có 
thể có những đáp án khác nhau. Chính sự khác nhau này đã thôi thúc các em suy nghĩ, 
lý giải căn nguyên của hiện tượng trên. Trong quá trình suy nghĩ, lý giải đó các em sẽ 
phát hiện ra chỗ sai, chỗ đúng, chỗ thiếu,... của bạn, của mình để có biện pháp học tập 
hoặc sửa chữa. Hoặc khi giải quyết các nhiệm vụ học tập khác nhau thì việc lắng nghe 
kết quả làm bài của bạn cũng là cách giúp học sinh lĩnh hội tri thức cho bản thân. Như 
vậy là thông qua việc thực hiện và thể hiện đáp án của bài tập và nhiệm vụ trong phiếu 
giữa học sinh với học sinh cũng có sự tác động qua lại.
 Tuy nhiên trong quá trình tác động qua lại giữa học sinh - học sinh, giáo viên 
đóng vai trò đặc biệt quan trọng bởi với tư cách là người trọng tài giáo viên sẽ lắng 
nghe và giúp các em xác định đâu là chân lý khoa học để từ đó học sinh đối chiếu với 
kết quả làm việc của bản thân để kiểm tra và điều chỉnh nó. Việc làm của giáo viên 
như vậy là giáo viên đã thực hiện tác động đến học sinh.
 Vậy môi trường trong dạy học cá nhân ảnh hưởng như thế nào đối với giáo 
viên, học sinh? Có thể hiểu một cách chung nhất về môi trường trong dạy học cá nhân 
theo tinh thần của đổi mới phương pháp dạy học đó là bầu không khí cởi mở, thoải 
mái nhưng nghiêm túc giữa giáo viên - học sinh, học sinh - học sinh. Môi trường này 
được xây dựng trên mối quan hệ bình đẳng, cùng hợp tác giữa giáo viên - học sinh, 
học sinh - học sinh. Giáo viên không còn là người đứng ở trên cao áp đặt kiến thức 
xuống đầu học sinh, trái lại giáo viên cùng là người hợp tác, giao lưu với học sinh để 
cùng học sinh giải quyết các nhiệm vụ học tập theo cách của người hướng dẫn. Chính 
bầu không khí được xây dựng trên quan hệ đó đã kích thích tính tích cực học tập, giao 
lưu, cùng học cùng tham gia của các tác nhân làm cho nhiệm vụ học tập được giải 
quyết một cách nhẹ nhàng, hiệu quả.
 Trang 18 Sáng kiến kinh nghiệm
Câu 1: Đánh dấu x vào ô trống xác định trình tự quan sát cái cây em thích:
 Từ gần đến xa. Từ dưới lên trên
 Từ xa đến gần Từ trên đến dưới.
Câu 2: Ghi lại các đặc điểm của cây sau khi quan sát (theo các câu hỏi gợi ý sau):
a) Thân cây:
+ Màu sắc ra sao? .............................................................................
+ Sờ tay vào thân cây em thấy thế nào? ............................................
b) Lá cây:
+ Hình gì? ..........................................................................................
+ Màu sắc ra sao? ..............................................................................
+ Có thể so sánh lá cây với vật gì?.....................................................
c) Hoa:
+ Màu sắc .....................................................................................................
+ Hương thơm thế nào? Có thể so sánh với hương thơm của loại hoa gì?...
+ Dáng vẻ ra sao ? Có thể so sánh hoa, cánh hoa, nhuỵ hoa với vật gì?...
d) Em hãy tìm một số từ ngữ diễn đạt những ý quan sát được: ....................
Ngoài những bộ phận trên, em còn quan sát được những bộ phận nào khác của cây? 
Hãy ghi rõ hình dáng, màu sắc của chúng? ...........................................
Câu 3:
+ Cái cây mà em quan sát có đặc điểm gì nổi bật ? Có thể dùng từ ngữ nào để diễn 
đạt ? ....
+ Khi quan sát các bộ phận của cây em thấy hình ảnh nào đáng chú ý nhất ? Hãy nêu 
rõ cảm xúc, suy nghĩ của mình ? ....
(“Tập quan sát cây cối” - TV 4 - CT TN)
Ví dụ 2: Khi nói về mục đích tác động đến người đọc có 2 ý kiến:
 1-Tác giả muốn ca gợi đức tính chí công vô tư biết vì lợi ích chung của Tô 
Hiến Thành.
 2- Tác giả muốn nêu lên một bài học kinh nghiệm về việc sử dụng người đúng 
với khả năng không màng danh lợi. 
Hãy trao đổi với bạn nhận xét của em về 2 ý kiến trên. 
(“Một người chính trực” - T V 4)
Ví dụ 3: Hãy cùng bạn bên cạnh tìm các từ chứa tiêng có âm r, d, gi có nghĩa như sau:
 Trang 20 Sáng kiến kinh nghiệm
thành viên trong nhóm theo hướng biết chan hoà, thông cảm, động viên, hỗ trợ lẫn 
nhau. Giáo viên thông qua việc lắng nghe ý kiến của học sinh sẽ có biện pháp điều 
chỉnh hoặc tiếp thu tục duy trì những nội dung và phương hướng học của mình đồng 
thời điều chỉnh được những ý kiến, quan điểm chưa đúng của học sinh. Còn học sinh 
sau khi nghe kết luận chung nhất của giáo viên về vấn đề các em đang bàn bạc, các em 
có thể tự điều chỉnh nhận thức quan điểm của mình làm cho nó trở nên đúng đắn hơn 
hoặc lĩnh hội nó một cách sâu sắc hơn toàn diện hơn kiến thức lĩnh hội được sẽ giảm 
bớt tính chủ quan, phiến diện, tính khách quan, khoa học được tăng lên. Có thể nói 
việc tổ chức dạy học theo nhóm nhỏ không những nâng cao hiệu quả học mà còn rèn 
luyện cho học sinh khả năng hợp tác, thích ứng.
 PHẦN: KẾT LUẬN
1. Kết luận
 Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, chúng tôi rút ta những kết luận sau:
 - Ngày nay trong xu hướng đổi mới giáo dục, nhà trường phổ thông nói chung 
và nhà trường tiểu học nói riêng luôn lấy học sinh làm nhân vật trọng tâm. Kết quả học 
tập của học sinh được đánh giá cao không chỉ ở mức độ hoạt động nhận thức cá nhân 
mà còn là mức độ hoạt động của cá nhân trong sự đổi mới phương pháp dạy học với 
nhóm. Vì vậy việc tổ chức dạy - học không những huy động được phương pháp 
nhận thức cá nhân mà còn cả cách thức giao tiếp, nhận thức của người học vào việc 
giải quyết các nhiệm vụ học tập. đổi mới phương pháp dạy học với tư cách là một 
chiến lược dạy học tiến bộ khi được sử dụng trong quá trình dạy học Tiếng Việt ở 
tiểu học hoàn toàn có khả năng làm được điều đó bởi: Sự lĩnh hội các kiến thức 
ngôn ngữ và kỹ năng giao tiếp của học sinh là kết quả của hoạt động nhận thức cá 
nhân và sự cọ sát giữa cá nhân với tập thể dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên. 
Không những thế nó còn hình thành ở học sinh bản lĩnh để giải quyết các vấn đề 
trong một xã hội thu nhỏ (lớp nhóm) và khả năng thích nghi trong môi trường tập 
thể.
 - Đổi mới phương pháp dạy học khi được sử dụng trong quá trình dạy học 
Tiếng Việt ở tiểu học được thể hiện thông qua phương pháp dạy học thảo luận nhóm, 
trò chơi học tập với các hình thức dạy học theo nhóm, cá nhân nên việc nắm vững kỹ 
 Trang 22

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ap_dung_doi_moi_phuong_phap_trong_day.doc