Chuyên đề Vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào dạy môn Khoa học Lớp 5
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào dạy môn Khoa học Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyên đề Vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào dạy môn Khoa học Lớp 5
CHUYÊN ĐỀ VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT VÀO DẠY MÔN KHOA HỌC LỚP 5 ----------------- I. Lý do chọn chuyên đề: Đổi mới phương pháp dạy học là nhằm áp dụng phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề. Đổi mới giáo dục là đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hoạt động hóa người học, trong việc tổ chức quá trình lĩnh hội tri thức thì lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên là người đóng vai trò tổ chức và điều khiển học sinh chiếm lĩnh tri thức, tự lực hoạt động tìm tòi phát hiện kiến thức mới. - PPBTNB là PP có tiến trình dạy học rõ ràng, dễ hiểu có thể áp dụng rộng rãi cho tất cả các trường. - Các em hứng thú, ham hoạt động. - Phát huy khả năng tìm tòi và sáng tạo của người học. 2. Khó khăn: - Phần đông giáo viên chưa được tham gia tập huấn về PP này. - Việc xác định bài học phù hợp để vận dụng PP này vào giảng dạy còn gặp khó khăn. Việc thiết kế bài dạy cũng gặp khó khăn. - Điều kiện, CSVC, bàn ghế học sinh chưa thuận tiện, trang thiết bị chưa đầy đủ, dụng cụ thí nghiệm còn thiếu nhiều. Các phương tiện hỗ trợ như máy chiếu chưa được trang bị. - Tiết học có thể kéo dài, mất nhiều thời gian. Phương pháp này giúp các em không chỉ nhớ lâu, mà còn hiểu rõ câu trả lời mình tìm được. Qua đó, học sinh sẽ hình thành khả năng suy luận theo phương pháp nghiên cứu từ nhỏ và hình thành tác phong, phương pháp làm việc khi trưởng thành. * Vậy PPBTNB là gì? Phương pháp BTNB là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm nghiên cứu, áp dụng cho việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên. BTNB chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho HS bằng các thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra... Với một vấn đề khoa học đặt ra, HS có thể đặt ra các câu hỏi, các giả thuyết từ những hiểu biết ban đầu, tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu để kiểm chứng và đưa ra những kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân tích, tổng hợp kiến thức. - Những hoạt động do giáo viên đề xuất cho học sinh được tổ chức theo tiến trình sư phạm nhằm nâng cao dần mức độ học tập. Các hoạt động này làm cho chương trình học tập được nâng cao lên và dành cho học sinh một phần tự chủ khá lớn. - Cần một lượng tối thiểu là 2 giờ/tuần trong nhiều tuần liền cho một đề tài. Sự liên tục của hoạt động và những phương pháp giáo dục được đảm bảo trong suốt thời gian học tập. - Bắt buộc mỗi học sinh phải có một quyển vở thực hành do chính các em ghi chép theo cách thức và ngôn ngữ của các em. - Mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh dần dần các khái niệm khoa học và kỹ thuật được thực hành, kèm theo là sự củng cố ngôn ngữ viết và nói của học sinh. 3. Tiến trình dạy học theo PPBTNB: Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề: Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là một tình huống do giáo viên chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học. Tình huống xuất phát phải ngắn gọn, gần gũi, dễ hiểu đối với học sinh. Tình huống xuất phát nhằm lồng ghép câu hỏi nêu vấn đề. Tình huống xuất phát càng rõ ràng thì việc dẫn nhập cho câu hỏi nêu vấn đề càng dễ. Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học. Câu hỏi nêu vấn đề nhằm kích thích tính tò mò, thích tìm tòi, nghiên cứu của học sinh nhằm chuẩn bị tâm thế cho học sinh trước khi khám phá, lĩnh hội kiến thức. Giáo viên phải dùng câu hỏi “mở”, tuyệt đối không dùng câu hỏi “đóng” hoặc trả lời “có hoặc không”. Sau khi chọn lọc các biểu tượng ban đầu của học sinh, giáo viên cần phải khéo léo gợi ý cho học sinh so sánh các điểm giống (đồng thuận giữa các ý kiến đại diện) hoặc khác nhau (không nhất trí giữa các ý kiến) các biểu tượng ban đầu. Từ những sự khác nhau đó giáo viên giúp học sinh đề xuất các câu hỏi. Việc làm rõ giữa các ý kiến khác nhau trước khi học kiến thức là một mấu chốt quan trọng. Các biểu tượng ban đầu càng khác nhau thì học sinh càng bị kích thích ham muốn tìm tòi chân lí. * Đề xuất phương án thực nghiệm nghiên cứu: Từ các câu hỏi đề xuất, giáo viên nêu câu hỏi cho học sinh đề nghị các em đề xuất thực nghiệm tìm tòi nghiên cứu để tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi đó. Các câu hỏi có thể là: “Theo các em làm thế nào để chúng ta tìm câu trả lời cho các câu hỏi trên?”; “Các em hãy suy nghĩ để tìm phương án giải quyết các câu hỏi mà lớp mình đặt ra!”. Các câu hỏi “đóng” là các câu hỏi yêu cầu một câu trả lời ngắn. VD: Pin là gì ? Tên của đồ vật này là gì? Có phải dòng điện chạy từ cực dương sang cực âm hay không ? Cũng không hẳn là cấm giáo viên đặt ra câu hỏi đóng, nhưng nếu các câu hỏi đặt ra để yêu cầu học sinh suy nghĩ hành động thì cần phải được chuẩn bị tốt và bắt buộc phải là những câu hỏi “mở”. Câu hỏi gợi ý là các câu hỏi được đặt ra trong quá trình làm việc của học sinh. Câu hỏi gợi ý có thể là câu ít mở hoặc là dạng câu hỏi đóng. Vai trò của nó nhằm gợi ý, định hướng cho học sinh. Khi đặt câu hỏi gợi ý, giáo viên nên dùng các cụm từ bắt đầu như “Theo các em”, “Em nghĩ gì”, “Theo ý em”. Khi đặt câu hỏi nên để một thời gian ngắn cho học sinh suy nghĩ hoặc có thời gian trao đổi nhanh với các học sinh khác, từ đó giúp học sinh tự tin hơn khi trình bày và trình bày mạch lạc hơn khi có thời gian chuẩn bị; b) Khi dạy theo PPBTNB không cho học sinh mở sách giáo khoa trong quá trình học mà chỉ sử dụng vào bước cuối cùng. c) Đánh giá học sinh: Đánh giá học sinh qua quá trình thảo luận, trình bày phát biểu ý kiến tại lớp. Đánh giá học sinh trong quá trình làm thí nghiệm. Đánh giá học sinh thông qua sự tiến bộ (không chê học sinh). IV. Kết luận: PPBTNB với những ưu điểm vượt trội. Tuy nhiên đây là phương pháp mới cần phải tìm hiểu nghiên cứu nhiều hơn, cần phải vận dụng thường xuyên hơn để có những kinh nghiệm cần thiết cho bản thân. Bản thân tôi cũng chưa có kinh nghiệm trong việc vận dụng phương pháp này vào giảng dạy. Kính mong lãnh đạo Phòng Giáo dục, lãnh đạo các trường, các thầy cô có nhiều kinh nghiệm, góp ý chia sẻ thêm để tôi cùng các thầy cô làm công tác giảng dạy vận dụng phương pháp này tốt hơn.
File đính kèm:
- chuyen_de_van_dung_phuong_phap_ban_tay_nan_bot_vao_day_mon_k.ppt